JOB SATISFACTION OF YOUNG EMPLOYEES INVOLVED IN JAPANESE TV PRODUCTION COMPANIES Tác giả: Soichi Nabeya |
JOB SATISFACTION OF YOUNG EMPLOYEES INVOLVED IN JAPANESE TV PRODUCTION COMPANIESTác giả: Soichi Nabeya TÓM TẮT ABSTRACT This study aims to quantitatively analyze the job satisfaction of young employees at a Japanese TV program production company and identify key measures for human resource management within the organization. From January to May 2021, a questionnaire survey was conducted with 101 young Directors and Assistant Directors working at a TV program production company. Using the ordinal logit model, which is well-suited for the analysis of ordinal categorical data, I investigated how the workplace environment provided by management impacts employee satisfaction. The analysis revealed that good relationships with senior staff and a departure from classical pedagogy positively impacted satisfaction, while job inequality and the need for improved information management negatively impacted satisfaction. This kind of quantitative research on job satisfaction among young employees of TV program production companies has rarely been conducted in Japan and is believed to contribute to human resource management in TV program production companies. These findings are expected to contribute to addressing the global challenge of securing young talent in similar industries and provide a foundation for future research and practical applications.CitationNabeya, S. (2024). JOB SATISFACTION OF YOUNG EMPLOYEES INVOLVED IN JAPANESE TV PRODUCTION COMPANIES. Hoa Sen University Journal of Science, 06, 1–22. https://vjol.info.vn/index.php/dhs/article/view/106301 |
MAJOR IMPACTS OF GLOBAL WARMING IN BANGLADESH: LEGAL IMPLICATION WITH PRESENT SCENARIO Tác giả: Dr. Md. Shahidul Islam and Mst. Owashema Akter Tithi |
MAJOR IMPACTS OF GLOBAL WARMING IN BANGLADESH: LEGAL IMPLICATION WITH PRESENT SCENARIOTác giả: Dr. Md. Shahidul Islam and Mst. Owashema Akter Tithi TÓM TẮT ABSTRACT The globe faces significant issues due to climate change caused by human activity, including global warming. Bangladesh's physical and socioeconomic characteristics make it highly vulnerable to the impacts of global warming. The legal framework in Bangladesh will significantly influence the potential responses to climate change. The Bangladeshi legal system is well-versed in addressing climate change-related issues such as flooding, inundation, and population relocation. However, global warming will probably worsen these issues in terms of scope. Therefore, it is essential to look for ways to improve legal institutions so that Bangladesh can help address both present and possible future issues. Bangladesh is located at the confluence of the Ganges, Brahmaputra, and Meghna (GBM) rivers, along with the hydro-meteorological and topographical features of the basins, making it particularly vulnerable to flooding, according to an Assessment on Community Flood Resilience in Jamuna Floodplain, an extreme flood event can liquidate up to 70% of the country, with an average annual flood covering 20.5% of the land. Bangladesh's economy suffers greatly from floods because of its low per capita income. The hydrology and water supplies of the GBM basins are expected to be significantly impacted by global warming brought by the amplified greenhouse effect, which potentially leads to more severe floods in Bangladesh. So, this research shall explore the legal ramifications of climate change in Bangladesh, highlighting the necessity of all-encompassing legal structures to tackle the complex issues brought about by temperature increases, sea level rise, and extreme weather phenomena.CitationIslam, M. S., Owashema, M., & Tithi, A. (2024). MAJOR IMPACTS OF GLOBAL WARMING IN BANGLADESH: LEGAL IMPLICATION WITH PRESENT SCENARIO. Hoa Sen University Journal of Science, 06, 23–35. https://vjol.info.vn/index.php/dhs/article/view/106304 |
Accountability of Transnational Corporations (TNCs) in Home States for Business-Related Human Rights Abuses in Host States: A Comparative Study Tác giả: Mohammad Mamunur Rashid |
Accountability of Transnational Corporations (TNCs) in Home States for Business-Related Human Rights Abuses in Host States: A Comparative StudyTác giả: Mohammad Mamunur Rashid TÓM TẮT ABSTRACT TNCs allegedly violate rights of the human beings in the form of child labour, trafficking, long work hours, sweatshops in the industry, and so on throughout their complex operations but accounting for TNCs under international law for these poignant activities is almost impossible. The impossibility staggeringly increases as TNCs do not have personhood under international law and of TNCs and there is ‘lax of relevant law’ or ‘inability of the host states to regulate’ the TNCs operating in their territory. Moreover, the International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR) confines state obligations to the territory and jurisdiction of the state party, whereas the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (ICESCR) does not contain identical provisions. So, there is the option of the scholars to think about extraterritorial obligations of the state. This article argues that the home states may account the TNCs for human rights abuses in the business relations conducted in the host states in pursuance to ARSIWA, Maastricht Principles, and UNGPs as the home states have overall control on the overseas operations of TNCs. As the US and Canada are two dominant home states, this article explores the approaches of these two countries. After exploration, this article finds that a ‘foreign claimant’ may complain before the US court for human rights violations by US corporations under the Alien Tort Claims Act (ATCA) if the conduct (action or omission) of the corporation ‘touches and concerns’ the USA. Moreover, foreign claims in the Canadian Courts are also available if the Canadian TNCs violate binding ‘customary international law’ and the conduct of the corporations has a ‘real and substantial connection’ with Canada.CitationRashid, M. M. (2024). ACCOUNTABILITY OF TRANSNATIONAL CORPORATIONS (TNCs) IN HOME STATES FOR BUSINESS-RELATED HUMAN RIGHTS ABUSES IN HOST STATES: A COMPARATIVE STUDY. Hoa Sen University Journal of Science, 06, 36–48. https://vjol.info.vn/index.php/dhs/article/view/106305 |
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN KHI SỬ DỤNG HỆ THỐNG MLEARNING TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN Tác giả: Nguyễn Quí Trung, TS. Phan Võ Minh Thắng |
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN KHI SỬ DỤNG HỆ THỐNG MLEARNING TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SENTác giả: Nguyễn Quí Trung, TS. Phan Võ Minh Thắng TÓM TẮT Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi sử dụng hệ thống học trực tuyến (mLearning) tại Trường Đại học Hoa Sen trong bối cảnh chuyển đổi số sau đại dịch COVID-19. Sử dụng mô hình Lý thuyết Chấp nhận Công nghệ (TAM) và Mô hình Thành công Hệ thống Thông tin (ISSM), nghiên cứu kiểm định mối quan hệ giữa chất lượng hệ thống, chất lượng dịch vụ, chất lượng tương tác, nhận thức về tính hữu ích, nhận thức về tính dễ sử dụng và sự hài lòng của sinh viên. Dữ liệu được thu thập từ 301 sinh viên thông qua khảo sát trực tuyến và phân tích bằng Cronbach's Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Kết quả cho thấy chất lượng hệ thống, chất lượng dịch vụ và chất lượng tương tác đều ảnh hưởng tích cực đến nhận thức của sinh viên về tính hữu ích và tính dễ sử dụng của hệ thống, từ đó tác động đến mức độ hài lòng tổng thể. Trong đó, chất lượng tương tác giữa sinh viên và giảng viên đóng vai trò quan trọng nhất. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp thực tiễn để cải thiện hệ thống mLearning, bao gồm cải tiến giao diện, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, và thúc đẩy tương tác giữa giảng viên và sinh viên. Kết quả này cung cấp cơ sở lý thuyết và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng giáo dục trực tuyến tại Trường Đại học Hoa Sen và các tổ chức giáo dục tương tự.ABSTRACT This study analyzes the factors influencing student satisfaction with the online learning system (mLearning) at Hoa Sen University in the context of digital transformation following the COVID-19 pandemic. By employing the Technology Acceptance Model (TAM) and the Information Systems Success Model (ISSM), the research investigates the relationships between system quality, service quality, interaction quality, perceived usefulness, perceived ease of use, and student satisfaction. Data were collected from 301 students through an online survey and analyzed using Cronbach's Alpha, exploratory factor analysis (EFA), confirmatory factor analysis (CFA), and structural equation modeling (SEM). The findings reveal that system quality, service quality, and interaction quality positively influence students' perceptions of the system's usefulness and ease of use, which in turn significantly impact overall satisfaction. Among these factors, the quality of interaction between students and instructors emerges as the most critical determinant. The study proposes practical solutions to enhance mLearning systems, including interface improvements, strengthened technical support, and fostering greater interaction between instructors and students. These findings provide theoretical and practical insights for advancing the quality of online education at Hoa Sen University and similar educational institutions.CitationNguyễn, Q. T., & Phan, V. M. T. (2024). CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN KHI SỬ DỤNG HỆ THỐNG MLEARNING TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN. Tạp Chí Khoa Học Trường Đại Học Hoa Sen, 06, 49–69. https://vjol.info.vn/index.php/dhs/article/view/106306 |
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP Tác giả: NCS.Ưng Lê Anh Đạt |
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH ĐỒNG THÁPTác giả: NCS.Ưng Lê Anh Đạt TÓM TẮT Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước là một nguồn lực tài chính quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của cả nước cũng như từng địa phương. Nguồn vốn này đóng vai trò chủ yếu trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của địa phương nên việc thực hiện chính sách quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước được đặc biệt chú trọng. Hàng năm, ngân sách nhà nước dành một tỷ lệ lớn chi cho đầu tư XDCB và tăng dần qua các năm (theo quy định mỗi địa phương phải tăng tối thiểu 10% vốn XDCB tập trung). Tuy nhiên, việc quản lý nguồn vốn đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước có xảy ra thất thoát, lãng phí. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân hạn chế ở vấn đề thực hiện chính sách quản lý vốn đầu tư xâyABSTRACT State budget capital for basic construction investment is an important financial resource for socio-economic development, ensuring national defense and security of the whole country as well as each locality. This capital source plays a major role in investing in local infrastructure construction, so the implementation of the policy on managing basic construction investment capital from the state budget is given special attention. Every year, the state budget allocates a large proportion of expenditure for basic construction investment and increases gradually over the years (according to regulations, each locality must increase at least 10% of concentrated basic construction investment capital). However, the management of basic construction investment capital from the state budget has resulted in loss and waste. This situation is due to many reasons, including limitations in the implementation of the policy on managing basic construction investment capital.CitationƯng, L. A. Đ. (2024). QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP. Tạp Chí Khoa Học Trường Đại Học Hoa Sen, 06, 70–95. https://vjol.info.vn/index.php/dhs/article/view/106307 |
EXTENDING TPB MODEL: FROM INDIVIDUAL CHOICES TO PROMOTING GREEN REAL ESTATE VALUES Tác giả: Vu Minh Thy * , Nguyen Thi Hong Chau, Tran Phu Thanh, Tran Khanh Lynh, Nguyen Phuong Quynh |
EXTENDING TPB MODEL: FROM INDIVIDUAL CHOICES TO PROMOTING GREEN REAL ESTATE VALUESTác giả: Vu Minh Thy * , Nguyen Thi Hong Chau, Tran Phu Thanh, Tran Khanh Lynh, Nguyen Phuong Quynh TÓM TẮT Tính đến ngày 8 tháng 8 năm 2024, Việt Nam có 907 đô thị, phản ánh quá trình đô thị hóa mạnh mẽ dẫn đến giảm đất ở, gia tăng ô nhiễm và nhu cầu ngày càng cao về không gian sống sạch và xanh. Đại dịch COVID-19 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường sống lành mạnh, thân thiện với môi trường, thúc đẩy sự phát triển của bất động sản xanh. Lĩnh vực này áp dụng các công nghệ như năng lượng tái tạo, vật liệu ít phát thải và thiết kế bền vững, mang lại lợi ích cho môi trường và cộng đồng. Người tiêu dùng ngày càng sẵn sàng trả giá cao hơn cho các bất động sản như vậy khi họ nhận ra giá trị của chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu về bất động sản xanh tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào quan điểm của nhà phát triển. Nghiên cứu "Từ lựa chọn cá nhân đến sứ mệnh lan tỏa giá trị bất động sản xanh - Mở rộng Lý thuyết Hành vi Dự kiến (TPB)" nhằm dự đoán hành vi của người tiêu dùng và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua bất động sản xanh. Nghiên cứu xem xét các yếu tố cơ bản của TPB—chuẩn mực chủ quan, thái độ và nhận thức kiểm soát hành vi—cùng với nhận thức về hiệu quả môi trường và nhân khẩu học. Ngoài ra, nghiên cứu còn giới thiệu mô hình lan tỏa giá trị cộng đồng để phân tích tác động và đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm khuyến khích áp dụng bất động sản xanh.ABSTRACT Vietnam had 907 urban areas as of August 8, 2024, indicating significant urbanisation that has resulted in less residential land, increased pollution, and a growing demand for clean, green living spaces. The COVID-19 pandemic emphasised the significance of healthy, environmentally friendly environments, which fuelled the growth of green real estate. This sector comprises technology such as renewable energy, low-emission materials, and sustainable designs, which provide environmental and community benefits. Consumers are increasingly willing to pay a premium for such traits if they realise their worth. However, research on green real estate in Vietnam is still sparse, with a primary focus on developer viewpoints. The study "From Personal Choices to the Mission of Spreading Green Real Estate Values-Expanding the Theory of Planned Behaviour (TPB)" seeks to predict consumer behaviour and discover factors that influence green real estate purchases. It investigates basic TPB components—subjective norms, attitudes, and perceived behavioural control—as well as environmental awareness and demography. The study also presents a community value diffusion model to investigate green real estate's broader impact and makes legislative recommendations to encourage its implementation.CitationVũ, M. T., Nguyễn, T. H. C., Trần, P. T., Trần, K. L., & Nguyễn, P. Q. (2024). EXTENDING TPB MODEL: FROM INDIVIDUAL CHOICES TO PROMOTING GREEN REAL ESTATE VALUES. Hoa Sen University Journal of Science, 06, 96–121. https://vjol.info.vn/index.php/dhs/article/view/106309 |
Tác giả: |
Tác giả: TÓM TẮT ABSTRACT Citation |
JOB SATISFACTION OF YOUNG EMPLOYEES INVOLVED IN JAPANESE TV PRODUCTION COMPANIES Tác giả: Soichi Nabeya |
|
MAJOR IMPACTS OF GLOBAL WARMING IN BANGLADESH: LEGAL IMPLICATION WITH PRESENT SCENARIO Tác giả: Dr. Md. Shahidul Islam and Mst. Owashema Akter Tithi |
|
Accountability of Transnational Corporations (TNCs) in Home States for Business-Related Human Rights Abuses in Host States: A Comparative Study Tác giả: Mohammad Mamunur Rashid |
|
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN KHI SỬ DỤNG HỆ THỐNG MLEARNING TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN Tác giả: Nguyễn Quí Trung, TS. Phan Võ Minh Thắng |
|
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP Tác giả: NCS.Ưng Lê Anh Đạt |
|
EXTENDING TPB MODEL: FROM INDIVIDUAL CHOICES TO PROMOTING GREEN REAL ESTATE VALUES Tác giả: Vu Minh Thy * , Nguyen Thi Hong Chau, Tran Phu Thanh, Tran Khanh Lynh, Nguyen Phuong Quynh |
|
Tác giả: |